Từ xác suất (probability) bắt nguồn từ chữ probare trong tiếng Latin và bao gồm nghĩa là "để chứng minh, để kiểm chứng". Nói một phương pháp đơn giản, probable là một trong nhiều từ dùng để chỉ những sự kiện hoặc kiến thức chưa chắc chắn, với thường đi kèm với các từ như "có vẻ là", "mạo hiểm", "may rủi", "không chắc chắn" xuất xắc "nghi ngờ", tùy thuộc theo ngữ cảnh. "Cơ hội" (chance), "cá cược" (odds, bet) là những từ đến khái niệm tương tự. Nếu lí thuyết cơ học (cơ học cổ điển) tất cả định nghĩa đúng mực cho "công" với "lực", thì lí thuyết xác suất nhằm mục đích định nghĩa "khả năng".

Bạn đang xem: Lịch sử của xác suất


Các giai đoạn lịch sử

Khoa học nghiên cứu về xác suất là một vạc triển trong thời kỳ cận đại. Việc chơi cờ bạc (gambling) cho chúng ta thấy rằng những ý niệm về xác suất đã bao gồm từ trước đây hàng trăm năm, mặc dù các ý niệm đó được mô tả bởi toán học cùng sử dụng trong thực tế thì gồm muộn hơn rất nhiều.

Hai đơn vị toán học Pierre de Fermat với Blaise Pascal là những người đầu tiên đặt nền móng mang lại học thuyết về xác suất vào năm (1654). Christiaan Huygens (1657) được biết đến như là người đầu tiên tất cả công trong việc đưa xác suất thành một vấn đề nghiên cứu khoa học.

Học thuyết chủ nghĩa về xác suất bắt đầu bằng những lần thư từ qua lại giữa Pierre de Fermat và Blaise Pascal (1654). Christiaan Huygens (1657) đã đưa ra những hiểu biết đầu tiên mang ý nghĩa khoa học về vấn đề này. Các cuốn Ars Conjectandi của Jakob Bernoulli (sau khi chết, 1713) với Học thuyết chủ nghĩa cơ hội (Doctrine of Chances) của Abraham de Moivre (1718) đã xem xét chủ đề như một trụ sở của ngành toán học.

Lý thuyết không đúng số (the theory of errors) bao gồm thể bắt đầu từ cuốn sách Opera Miscellanea của Roger Cotes (xuất bản sau khoản thời gian ông mất, 1722), nhưng lí thuyết này đã được áp dụng lần đầu tiên vào một luận văn của Thomas Simpson vào năm 1755 (in vào năm 1756) vào thảo luận về không đúng số xảy ra trong quan ngay cạnh (errors of observation). Bản in lại (1757) của luận văn này đưa ra tiên đề rằng khả năng không đúng số âm với dương (positive and negative errors) là ngang nhau, "và rằng có các giới hạn xác định được cơ mà mọi sai số đều nằm trong các khoảng đó; những sai số liên tục được thảo luận với một đường cong xác suất được đưa ra" (and that there are certain assignable limits within which all errors may be supposed khổng lồ fall; continuous errors are discussed và a probability curve is given).

Xem thêm: Viện Bảo Tàng Lịch Sử Việt Nam, Nhớ Về Những Bài Học Lịch Sử Thuở Ê A

Pierre-Simon Laplace (1774) đã thực hiện nỗ lực đầu tiên trong việc đúc kết một qui luật từ việc kết hợp các quan cạnh bên từ các nguyên lí của lí thuyết xác suất. Ông đã giới thiệu định luật xác suất về không nên số (the law of probability of errors) bằng một đường cong y = φ(x), x là một không đúng số bất kì với y là xác suất của lỗi đó, với đưa ra 3 thuộc tính mang đến đường cong này: (1) Nó là đối xứng qua trục y; (2) trục x là đường tiệm cận, xác suất của không đúng số là 0; (3) diện tích vùng bao phủ là 1, thì một không đúng số là tồn tại. Ông cũng đã đúc kết một công thức từ 3 quan tiếp giáp đó. Ông cũng đã đưa ra (1781) một công thức đến định luật của điều kiện của sai số (the law of facility of error) (một thuật ngữ của Lagrange, 1774), nhưng công thức này dẫn đến phương trình không thể giải quyết được. Daniel Bernoulli (1778) đã giới thiệu nguyên lí của tích cực đại của những xác suất của một hệ thống không đúng số đồng thời.

Phương pháp bình phương cực tiểu do Adrien-Marie Legendre (1805), giới thiệu vào cuốn Nouvelles méthodes pour la détermination des orbites des comètes (Những Phương pháp mới để Xác định Quỹ đạo Sao chổi). Không biết đến đóng góp của Legendre, Robert Adrain, một tác giả Mỹ gốc Ireland, chủ cây viết tạp chí The Analyst (1808), lần đầu đưa ra định luật điều kiện của không nên số,

*

c với h là những hằng số phụ thuộc vào độ đúng chuẩn của quan liêu sát.

Ông đưa ra nhị chứng minh, chứng minh thứ nhì về cơ bản giống với chứng minh của John Herschel (1850). Carl Friedrich Gauss đưa ra chứng minh thứ nhất, dù chứng minh này có thể đã được biết đến ở châu Âu là chứng minh thứ tía sau Adrain, vào năm 1809. Những chứng minh tiếp theo đã được Laplace (1810, 1812), Gauss (1823), James Ivory (1825, 1826), Hagen (1837), Friedrich Bessel (1838), Donkin (1844, 1856) với Morgan Crofton (1870) đưa ra. Các tác giả không giống đã đóng góp vào định luật này là Ellis (1844), Augustus De Morgan (1864), Glaisher (1872) và Giovanni Schiaparelli (1875). Công thức của Peters (1856) về r, không đúng số xác suất của một quan liêu sát, rất phổ biến.

Vào thế kỷ 19 các tác giả về lý thuyết xác suất có Laplace, Sylvestre Lacroix (1816), Littrow (1833), Adolphe Quetelet (1853), Richard Dedekind (1860), Helmert (1872), Hermann Laurent (1873), Liagre, Didion và Karl Pearson. Augustus De Morgan cùng George Boole đã đóng góp vào việc giải mê thích lý thuyết xác suất.

Về mặt hình học (xem hình học giải tích) các tác giả tất cả ảnh hưởng lớn là Miller, Crofton, McColl, Wolstenholme, Watson với Artemas Martin.