function tS() x=new Date(); x.setTime(x.getTime()); return x; function y2(x) x=(x 11) ap ="PM"; ;return ap; function dT() if(fr==0) fr=1; document.write(""+eval(oT)+""); tP.innerText=eval(oT); setTimeout("dT()",1000); var dN=new Array("Chủ nhật","Thứ hai","Thứ ba","Thứ tư","Thứ năm","Thứ sáu","Thứ bảy"),mN=new Array("1","2","3","4","5","6","7","8","9","10","11","12"),fr=0,oT="dN+", "+tS().getDate()+"/"+mN+"/"+y2(tS().getYear())+"-"+tS().getHours()+":"+tS().getMinutes()+" "+k()"; dT();

Bạn đang xem: Lịch sử thời nhà lý

CÔNG TRÌNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH CỦA BAN TUYÊN GIÁO QUẬN ỦY QUẬN 8 “DÂN TA PHẢI BIẾT SỬ TA"

Dân ta phải ghi nhận sử ta


LỊCH SỬ DÂN TỘC
Giai đoạn từ thời dựng nước đến cố gắng kỷ X
Giai đoạn từ núm kỷ X cho XV
LIÊN KẾT WEB
website liên kết hcm city web q.1 Quận 2 q3 Quận 4 q.5 Quận 6 q.7 Quận 8 Quận 9 q10 Quận 11 quận 12 Quận Bình Tân Quận quận bình thạnh Quận lô Vấp Quận Phú Nhuận Quận Tân Bình Quận Tân Phú Quận Thủ Đức Huyện huyện bình chánh Huyện cần Giờ thị xã Củ đưa ra Huyện Hóc Môn Huyện nhà Bè


*


Xem thêm: An Nguy Là Ai? Thông Tin Tiểu Sử Diễn Viên An Nguy Là Ai? Tiểu Sử Vloger An Nguy

SỐ LƯỢT truy hỏi CẬP


4
6
9
6
6
8
4
2
Nhân vật lịch sử từ núm kỷ X đến XV trăng tròn Tháng Mười 2011 10:50:00 CH

9 ĐỜI VUA TRIỀU ĐẠI NHÀ LÝ


1. LÝ THÁI TỔ (1010 – 1028)

Tên húy là Lý Công Uẩn, sinh ngày 12 mon 02 năm cạnh bên Tuất (974) là fan châu Cổ Pháp (thuộc huyện Tiên sơn tỉnh thành phố bắc ninh ngày nay).

Thời Lê Ngọa Triều, Lý Công Uẩn giữ lại chức Tứ sương quân phó lãnh đạo sứ, tiếp đến được thăng đến chức Tả thân vệ năng lượng điện tiền lãnh đạo sứ. Vày chức này, sử cũ thường điện thoại tư vấn vua là Thân vệ. Năm Kỷ Dậu (1009), Lê Ngọa Triều mất, ông được triều thần (đại diện là Đào Cam Mộc) và các nhà sư (đại diện là Sư Vạn Hạnh) tôn vinh ngôi vua. Vua đăng vương tháng 10 năm Kỷ Dậu (1009) nhưng ban đầu đặt niên hiệu riêng từ thời điểm năm 1010 yêu cầu sử vẫn thường xuyên tính năm đầu đời Lý Thái Tổ là năm 1010. Mon 7 năm 1010 vua quyết định dời đô về Thăng Long. Vua làm việc ngôi 18 năm, mất ngày 03 tháng 3 năm Mậu Thìn (1028), lâu 54 tuổi. Vào 18 năm làm vua, ông chỉ dùng một niên hiệu độc nhất là Thuận Thiên.

2. LÝ THÁI TÔNG (1028 – 1054)

Tên húy là Lý Phật Mã hay Lý Đức Chính, bé trưởng của Lý Thái Tổ, mẹ đẻ là Lê Thái Hậu. Vua sinh ngày 26 tháng 6 năm Canh Tí (1000) tại Hoa Lư. Tháng bốn năm Nhâm Tý (1012), ông được lập Thái tử và lên ngôi Vua vào ngày 04 mon 3 năm Mậu Thìn (1028), sinh hoạt ngôi 26 năm, mất ngày 1 tháng 10 năm ngay cạnh Ngọ (1054), lâu 54 tuổi.

Vua Lý Thái Tông là vị vua anh minh và có khá nhiều đóng góp trong triều đại bên Lý. Chủ yếu ông thân chinh lấy quân đi dẹp cuộc nổi dậy của Nùng Tồn Phúc, Nùng Trí Cao; năm 1044 sau trận đánh tranh với Chiêm Thành vua cho đặc xá miễn một nữa tiền thuế để khoan mức độ dân; năm 1049 mang đến xây miếu Diên Hựu (Chùa Một cột); Năm 1042 vua cho phát hành Bộ hiện tượng Hình thư là bộ qui định thành văn thứ nhất của nước ta.  

Trong thời gian ở ngôi, ông có 6 lần đặt niên hiệu, kia là: Thiên Thành (1028-1034), Thông Thụy (1034-1039), Càn Phù Hữu Đạo (1039-1042), Minh Đạo (1042-1044), Thiên Cảm Thánh Vũ (1044-1049), Sùng Hưng Đại Bảo (1049-1054).

3. LÝ THÁNH TÔNG (1054-1072)

Tên húy là Nhật Tôn. Các bộ chính sử số đông chép vua là bé trưởng của vua Lý Thái Tông, bà bầu người bọn họ Mai, tước đoạt Kim Thiên Thái hậu (duy chỉ tất cả Đại Việt sử lược thì chép vua là con thứ ba, người mẹ là phiêu dạt Thái hậu). Vua sinh ngày 25 tháng hai năm Quý Hợi (1023) tại ghê thành Thăng Long. Ngày 6 mon 5 năm Mậu Thìn (1028) ông được lập thành Thái tử cùng lên ngôi ngày 1 tháng 10 năm liền kề Ngọ (1054), ông sinh sống ngôi 18 năm, mất tháng 1 năm Nhâm Tí (1072), thọ 49 tuổi.

Vua được coi là ông vua yêu đương dân, thêm bó với nông dân, đồng ruộng, ông hay đi xem cấy, gặt hái. Năm 1070 vua mang lại mở ngôi trường lập văn miếu tại kinh kì Thăng Long.

Trong 18 năm làm việc ngôi, vua Lý Thánh Tông sẽ 5 lần đặt niên hiệu, đó là: Long Thụy tỉnh thái bình (1054-1058), Chương Thánh Gia Khánh (1059-1065), Long Chương Thiên tự (1066-1068), Thiên Huống Bảo Tượng (1068-1069), Thần Vũ (1069-1072).

4. LÝ NHÂN TÔNG (1072-1127)

Tên húy là Càn Đức, bé trưởng của Vua Lý Thánh Tông, mẹ đẻ là Linh Nhân Thái hậu (tức bà Ỷ Lan). Vua sinh ngày 25 tháng 1 năm Bính Ngọ (1066) tại kinh thành Thăng Long, đăng vương tháng 1 năm Nhâm Tí (1072), sống ngôi 55 năm, mất ngày 12 tháng 12 năm Đinh mùi hương (1127), thọ 61 tuổi.

Trong thời gian vua Lý Nhân Tông sinh sống ngôi, bên Tống bao gồm ý đồ xâm lược nước ta, vua và Thái úy Lý hay Kiệt đã dữ thế chủ động đánh xua quân Tống, với đã thắng lợi ở sông Như Nguyệt, tiến công đuổi được quân Tống.

Năm 1076 vua đến mở trường văn miếu quốc tử giám ở đế đô Thăng Long, cũng từ đây, nền giáo dục đh của nước ta được khai sinh.

Trong 55 năm ở ngôi vua sẽ 8 lần để niên hiệu, kia là: Thái Ninh (1072-1076), Anh Vũ Chiêu thắng (1076-1084), Quảng Hựu (1085-1092), Hội Phong (1092-1100), Long Phù (Long Phù Nguyên Hóa) (1101-1109), Hội Tường Đại Khánh (1110 – 1119), Thiên Phù Duệ Vũ (1120-1126), Thiên Phù Khánh thọ (1127).

5. LÝ THẦN TÔNG (1127-1138)

Tên húy là Dương Hoán, nhỏ trưởng của em ruột vua Nhân Tông là Sùng hiền hậu Hầu, được Vua trằn Nhân Tông dấn làm con nuôi rồi sau truyền ngôi cho, bà mẹ đẻ là phu nhân họ Đỗ. Thần Tông là con cháu ruột của Vua Nhân Tông. Vua sinh tháng 6 năm Bính Thân (1116), Năm Đinh Dậu (1117) thì được Nhân Tông nhận làm bé nuôi. Khi vua Nhân Tông mất, ông được lên nối ngôi vào thời điểm cuối tháng 12 năm Đinh mùi hương (1127). Vua ngơi nghỉ ngôi 10 năm, mất ngày 26 mon 9 năm Mậu Ngọ (1138), thọ 22 tuổi.

Vua Lý Thần Tông coi trọng việc cách tân và phát triển nông nghiệp, thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông”, cho lính tráng đổi phiên, cứ theo lần lượt 6 mon một được về làm cho ruộng, do thế nhân dân no đủ, an cư lạc nghiệp. Trong thời hạn ở ngôi, vua Lý Thần Tông vẫn đặt nhì niên hiệu: Thiên Thuận (1128-1132), Thiên Chương Bảo tự (1133-1138).

6. LÝ ANH TÔNG (1138-1175)

Tên Húy là Thiên Tộ, nhỏ trưởng của Lý Thần Tông, mẹ đẻ là Lê thái hậu. Vua sinh tháng tư năm Bính Thìn (1136) cùng lên ngôi ngày một tháng 10 năm Mậu Ngọ (1138), nghỉ ngơi ngôi 37 năm, mất vào tháng 7 năm Ất mùi hương (1175), lâu 39 tuổi.

Trong 37 năm ngơi nghỉ ngôi, ông đã đặt 4 niên hiệu: Thiệu Minh (1138-1140), Đại Định (1140-1162), bao gồm Long Bảo Ứng (1163-1174), Thiên Cảm Chí Bảo (1174-1175).

7. LÝ CAO TÔNG (1175-1210)

Tên húy là Long Trát giỏi Long cán, là con thứ 6 của Vua Anh Tông, bà bầu đẻ là Thụy Châu Thái hậu, tín đồ họ Đỗ. Vua sinh ngày 25 mon 5 năm Quý ghen (1173), đăng vương tháng 7 năm Ất mùi hương (1175), làm việc ngôi 35 năm, mất ngày 28 tháng 10 năm Canh Ngọ (1210), thọ 37 tuổi.

Trong thời gian ở ngôi, vua ăn uống chơi vô độ thế nên giặc cướp nổi lên các nơi, dân đói hèn liên miên, cơ nghiệp công ty Lý suy đồi từ trên đây dù đã có dấu hiệu từ thời vua Lý Anh Tông.

Vua Lý Cao Tông tất cả 4 lần để niên hiệu: Trinh Phù (1176-1186), thiên tính Gia Thụy (1186-1202), Thiên Gia Bảo Hựu (1202-1205), Trị Bình Long Ứng (1205-1210).

8. LÝ HUỆ TÔNG (1210-1224)

Tên húy là Hạo Sảm, con trưởng của Vua Cao Tông, người mẹ đẻ là Đàm Thái Hậu. Vua sinh tháng 7 năm cạnh bên Dần (1194), được lập làm cho Thái tử vào tháng 1 năm Mậu Thìn (1208), lên ngôi cuối năm Canh Ngọ (1210), sinh hoạt ngôi 14 năm. Năm liền kề Thân (1224), vua nhịn nhường ngôi cho con gái thứ là Lý Chiêu Hoàng rồi đi tu ở chùa Chân Giáo (trong thành Thăng Long, hiệu là Huệ quang quẻ Thiền Sư). Mặc dù ông ở ngôi vua, nhưng mọi việc trong triều chủ yếu đều do Trần Thủ Độ điều hành. Huệ Tông sau bị công ty Trần bức tử vào tháng 8 năm Bính Tuất (1226), thọ 32 tuổi. Trong 14 năm trị vì, vua chỉ đặt một niên hiệu là kiến Gia (1211-1224).

9. LÝ CHIÊU HOÀNG (1224-1225)

Tên húy là Phật Kim, lại có tên húy không giống là Lý Thiên Hinh Nữ, được vua phụ thân là Lý Huệ Tông phong làm cho Chiêu Thánh công chúa, là nhỏ thứ hai của vua nai lưng Huệ Tông, bà mẹ đẻ là Thuận Trinh thái hậu nai lưng Thị Dung. Bà sinh mon 9 năm Mậu dần (1218). Mon 10 năm gần cạnh Thân (1224) được vua thân phụ truyền ngôi. Đến mon 12 năm Ất Dậu (1225) bên dưới sự đạo diễn của è cổ Thủ độ, Lý Chiêu Hoàng nhường nhịn ngôi cho ông xã là trằn Cảnh (là cháu hotline Trần Thủ Độ bởi chú, sau đây là vua è Thánh Tông), từ trên đây bà là Chiêu Thánh hoàng hậu. Bên Lý chấm dứt từ đó. Lý Chiêu Hoàng mất hồi tháng 3 năm Mậu dần (1278), lâu 60 tuổi. Niên hiệu trong thời hạn bà ngơi nghỉ ngôi là Thiên Chương Hữu Đạo.